CHỌN MẪU PHI XÁC SUẤT
Bên cạnh những phương pháp chọn mẫu xác suất, ta còn có thể sử dụng các phương pháp chọn mẫu phi xác suất (non-probability sampling). Phương pháp này thường được sử dụng trong các cuộc nghiên cứu định tính, có quy mô nhỏ.
Điểm hạn chế của phương pháp này là
-
Người nghiên cứu không thể cho rằng đối tượng
nghiên cứu tổng quát hoá những kết luận nghiên cứu ra khỏi phạm vi đã chọn lựa.
-
Không thể tính được chính xác độ sai lệch
của mẫu.
Bên cạnh đó cũng có ưu điểm là ít phức tạp, ít tốn kém,
tiện lợi, nhanh gọn và có thể gặp lại, bổ sung cuộc nghiên cứu dễ dàng hơn phương
pháp chọn mẫu xác suất.
Các phương pháp chọn mẫu phi xác suất
1) Chọn
mẫu thuận tiện (convience, accidental sampling):
Còn được gọi là lấy mẫu tình cờ, mẫu
cơ hội; ở cách chọn mẫu này, người nghiên cứu có thể chọn những người gần gũi,
thích hợp để hỏi, cách chọn mẫu này thường gặp ở những trường hợp thực tập của
sinh viên với những đối tượng dễ gặp hàng ngày để phỏng vấn hoặc ví dụ khi đứng
ở trước một trung tâm mua sắm và trao bảng câu hỏi cho khách hàng hoặc phỏng vấn
khi họ bước vào trung tâm mua sắm.
Đây là mẫu phi xác suất vì bạn bỏ qua
những khách hàng tại các trung tâm mua sắm khác. Các ý kiến nhận được từ mẫu
này có thể phản ánh những đặc điểm đặc trưng của trung tâm mua sắm này, chẳng hạn
như phương châm kinh doanh của trung tâm (ví dụ, chỉ hướng đến những khách hàng
trung lưu) hoặc vị trí của trung tâm (ví dụ, gần một trường đại học sẽ thu hút
nhiều sinh viên), do đó không thể đại diện cho ý kiến của toàn thể người mua sắm.
Mẫu này không có tính chính xác nhưng
có thể tiết kiếm được thời gian và tiền bạc
2) Chọn
mẫu phân suất, chọn mẫu định ngạch (quota sampling);
Trong kỹ thuật này, khách thể nghiên
cứu được phân chia thành nhiều nhóm nhỏ (giống như trong lấy mẫu phân tầng) và
sau đó một số lượng không ngẫu nhiên sẽ được chọn từ mỗi nhóm nhỏ để đáp ứng một
định mức được xác định trước.
Trong chọn mẫu định mức tỷ lệ
(proportional quota sampling), tỷ lệ số người được chọn
trong mỗi nhóm phải phù hợp với cấu trúc của khách thể nghiên cứu. Ví dụ, nếu
dân số Mỹ bao gồm 70% người da trắng, 15% người Mỹ gốc Tây Ban Nha, 13% người Mỹ
gốc Phi; bạn muốn hiểu quan điểm bầu cử của họ trong một mẫu của 98 người, bạn
có thể đứng bên ngoài một trung tâm mua sắm và đề nghị mọi người bỏ phiếu quan
điểm của họ. Bạn sẽ phải dừng việc lấy phiếu của người gốc Tây Ban Nha khi bạn
đã có 15 phản hồi (hoặc dừng lấy phiếu người gốc Phi khi bạn đã có 13 phản hồi),
để các thành phần dân tộc trong mẫu phù hợp với tỉ lệ dân số Mỹ nói chung.
Chọn mẫu định mức phi tỷ lệ
(non-proportional quota sampling) không bị hạn chế bởi yêu
cầu phải đạt được một tỷ lệ đại diện nào đó, nhưng có thể phải đạt được một số
lượng tối thiểu trong mỗi nhóm. Trong trường hợp này, bạn có thể quyết định có
50 người trả lời từ mỗi nhóm trong ba nhóm dân tộc (người da trắng, người Mỹ gốc
Tây Ban Nha và người Mỹ gốc Phi) và bạn dừng lại khi đạt đến định mức của bạn
cho mỗi phân nhóm. Không một loại lấy mẫu định mức nào là có thể đại diện của
toàn dân số Mỹ, bởi vì tùy thuộc vào nơi nghiên cứu được thực hiện (ví dụ tại một
trung tâm mua sắm ở New York hay Kansas) kết quả có thể hoàn toàn khác nhau. Kỹ
thuật lấy mẫu định mức có tính đại diện thấp, nhưng có thể hữu ích bởi nó cho
phép nắm bắt được ý kiến của các nhóm nhỏ.
Ở cách chọn mẫu này người nghiên cứu
cố gắng tránh các định kiến trong việc chọn lựa các đối tượng và bảo đảm cho mẫu
càng có tính cách tượng trưng và tổng quát càng tốt. Điểm hạn chế ở cách chọn mẫu
này là người phỏng vấn thường chọn những đối tượng ít trở ngại, chọn những người
quen biết và đôi lúc có thành kiến với một tầng lớp xã hội nào đó.
3) Chọn
mẫu theo các chiều kích (dimensional sampling):
Kỹ thuật này là một biến thể của kỹ thuật
chọn mẫu phân suất nhưng mang hình thức nhiều chiều. Vấn đề là cụ thể hoá tất cả
những chiều kích cần nghiên cứu trong dân số và cố gắng bảo đảm mỗi sự phối hợp
các chiều kích này đều được tượng trưng trong mẫu nghiên cứu. Kỹ thuật này thường
được áp dụng với những mẫu nghiên cứu nhỏ, với chủ đích muốn đi sâu vào chi tiết
trong mỗi trường hợp. Với một mẫu nhỏ quá người ta sợ rằng sẽ có những yếu tố cần
nghiên cứu không được tượng trưng, do đó phương pháp chọn mẫu theo chiều kích này
là để tránh khuyết điểm trên.
Nhà nghiên cứu tính đến một số đặc điểm,
ví dụ: giới tính, độ tuổi, thu nhập, nơi cư trú và học vấn. Nhà nghiên cứu phải
đảm bảo rằng có ít nhất một người trong nghiên cứu đại diện cho mỗi đặc điểm đã
chọn. Ví dụ: trong số 10 người, nhà nghiên cứu đảm bảo rằng họ đã phỏng vấn 2
người thuộc một giới tính nhất định, 2 người thuộc nhóm tuổi nhất định và 2 người
có thu nhập từ £ 25000 đến £ 30000.
4) Chọn
mẫu theo mục đích, dựa trên sự phán đoán (purposive hay judgmental samping)
Khác với mẫu phân suất, trong kỹ thuật
chọn mẫu này người nghiên cứu không cần thiết phải chọn các tỉ lệ theo các phân
lớp, cũng không phải chọn theo sự tiện lợi như trong việc chọn mẫu tình cờ, mà
dựa trên sự phán đoán của người nghiên cứu để tìm những người trả lời nào đáp ứng
nhất những mục tiêu của cuộc nghiên cứu, những người nào có thể cung cấp nhiều
thông tin nhất cho vấn đề cần tìm hiểu.
Ưu điểm của kỹ thuật này là người
nghiên cứu có thể chọn những người trả lời dựa trên những kỹ năng nghiên cứu và
trên hiểu biết của mình. Một đặc trưng khách của kỹ thuật này là tìm ra những
trường hợp đặc biệt (những trường hợp lệch lạc) hơn là tìm ra những mẫu người trả
lời bình thường và để tìm xem cái gì đã làm cho họ tách khỏi những chuẩn mực đã
được qui định.
5) Chọn
mẫu tích luỹ (snowball sampling):
Trong chọn mẫu quả cầu tuyết, bạn bắt
đầu bằng cách nhận diện một vài người phù hợp với các tiêu chí để tiếp cận cho
nghiên cứu của bạn và sau đó đề nghị họ giới thiệu những người khác mà họ biết
sẽ đáp ứng các tiêu chí lựa chọn. Mặc dù kỹ thuật này thường được xem là cách
chọn mẫu không có tính xác suất, nhưng cũng có nhừng nhà nghiên cứu sử dụng thêm
cách rút thăm ở mỗi giai đoạn hoặc sử dụng thêm kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên ở
mỗi giai đoạn để tăng cường độ tin cậy của mẫu.
Ví dụ nếu bạn muốn khảo sát quản trị
mạng máy tính, ban đầu bạn chỉ biết một hoặc hai chuyên gia quản trị mạng, sau
khi thu nhận thông tin từ họ, bạn có thể đề nghị họ giới thiệu những người khác
cũng làm quản trị mạng. Mặc dù phương pháp này hầu như không dẫn đến mẫu có
tính đại diện, nhưng đôi khi nó có thể là cách duy nhất để tiếp cận với những
khách thể nghiên cứu khó tiếp cận hoặc khi không có khung lấy mẫu nào sẵn có.
6) Chọn
mẫu chuyên gia (expert sampling):
Đây là một kỹ thuật mà người được lựa
chọn một cách không ngẫu nhiên dựa trên chuyên môn của họ về lĩnh vực đang
nghiên cứu. Ví dụ, để hiểu về tác động của một chính sách mới của chính phủ như
Đạo luật Sarbanes-Oxley[1] người
nghiên cứu có thể lấy mẫu một nhóm kế toán, những người quen thuộc với lĩnh vực
này.
Ưu điểm của phương pháp này là ở chỗ các chuyên gia có
hiểu biết sâu rộng hơn về vấn đề nghiên cứu, nên ý kiến từ mẫu của các chuyên
gia đáng tin cậy hơn mẫu bao gồm cả những người không có chuyên môn. Tuy vậy,
những phát hiện từ mẫu sẽ không khái quát hóa cho toàn bộ quần thể nói chung.
[1]
Đạo luật Sarbanes-Oxley còn được biết với tên Đạo luật Sarbox, là một trong những
luật căn bản của nghề kế toán, kiểm toán, được ban hành tại Hoa Kỳ năm 2002. Mục
tiêu chính của Đạo luật này nhằm bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư vào các công
ty đại chúng bằng cách buộc các công ty này phải cải thiện sự đảm bảo và tin tưởng
vào các báo cáo, các thông tin tài chính công khai (theo Wikipedia - N.D)
Nhận xét
Đăng nhận xét